Chuyển đến nội dung chính

Bí quyết hóa rồng

Tác giả: Lý Quang Diệu
Dịch giả: Sài Gòn Book
Người đọc: Trương Văn Khởi
Nhà xuất bản: Trẻ
Năm xuất bản: 2001
Nhà tài trợ: Dương Tuấn Hải

"Nếu thắng trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong phát triển kinh tế", trò chuyện với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông Lý Quang Diệu - nguyên Thủ tướng Singapore khẳng định. Điều này được ông đúc rút từ thực tế xây dựng Singapore "hóa rồng" với những chính sách quyết liệt về giáo dục.


Trong hồi ký "Lịch sử Singapore 1965 - 2000: Bí quyết hóa rồng", Lý Quang Diệu đã kể lại những "bí quyết" này.


"Cuộc luận chiến hôn nhân vĩ đại"

Đáng chú ý, chương "nuôi dưỡng và thu hút nhân tài" dành phần lớn nội dung đề cập tới chính sách... tạo điều kiện cho các phụ nữ có trình độ cao lấy chồng và sinh nhiều con.

Trong diễn văn mừng đại hội Quốc khánh thường niên năm 1983, Lý Quang Diệu đã làm mọi người ngạc nhiên khi phát biểu "thật là ngu xuẩn cho những người đàn ông tốt nghiệp ĐH thích chọn vợ ít học và ít thông minh".

Phát biểu này xuất phát từ báo cáo về những số liệu điều tra dân số năm 1980. Bản thống kê cho thấy, những phụ nữ thông minh nhất không chịu lấy chồng. Khoảng phân nửa SV tốt nghiệp ĐH là nữ, 2/3 trong số đó không lập gia đình. Những phụ nữ giỏi nhất không sinh đẻ bởi những người đàn ông tương đương không chịu cưới họ làm vợ.

Lý Quang Diệu khẩn khoản đề nghị nam giới có trình độ cao cưới vợ cùng trình độ và khuyến khích phụ nữ có trình độ sinh từ hai con trở lên.

Đúng như dự đoán, phát biểu này đã dấy lên một cuộc công kích mà báo chí gọi đó là "cuộc luận chiến hôn nhân vĩ đại". Không chỉ là phản ứng của những gia đình có phụ nữ ít học và và học cao trong nước, truyền thông phương Tây cũng chỉ trích ông là "kẻ ngu dốt và định kiến" khi tin vào thuyết giáo dục tinh hoa, bởi cho rằng là tư chất thông minh là kế thừa.

Lý Quang Diệu vẫn kiên trì ý tưởng, bằng cách hằng năm, cho công bố các phân tích thống kê về trình độ học vấn của các phụ huynh trong số 10% HS đỗ đầu kỳ thi các lứa tuổi với các kết quả xác nhận yếu tố quyết định thành tích cao là do có bố mẹ trình độ cao.

Đồng thời, ông còn "làm bà mối ở cấp Nhà nước" bằng cách thiết lập cơ quan phát triển xã hội, tạo điều kiện cho nam nữ có trình độ hòa nhập với nhau dễ dàng hơn.

Để hạn chế phụ nữ trình độ thấp sinh nhiều con, phụ nữ trình độ cao sinh ít con, ông cùng với Bộ trưởng giáo dục lúc bấy giờ đã quyết định cho các bà mẹ có trình độ cao được quyền ưu tiên chọn trường tốt nhất cho cả ba đứa con nếu họ sinh đứa thứ 3.

Khi thực hiện các chính sách này, ông chờ đợi sự giận dữ của những bà mẹ ít học, nhưng điều bất ngờ lại là phản ứng của các bà mẹ học vấn cao bởi họ cho rằng không cần đặc quyền.

Tuy nhiên, những chàng trai đã "thấm" được thông điệp mà ông gửi đến: ngày càng nhiều người cưới vợ cùng trình độ.

Chất xám: Thu hoạch sớm và hút tài năng ngoại quốc

Gặp gỡ Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Lý Quang Diệu nói nguồn nhân lực tốt chính là "nút cổ chai" phát triển mà Việt Nam cần chuẩn bị trước.

Đây là vấn đề mà ông từng đau đầu vào cuối những năm 70.

Lúc đó, khó khăn về nguồn nhân tài trở nên trầm trọng khi các quốc gia phương Tây thay đổi chính sách nhập cư, chấp nhận người di dân châu Á. Thời điểm đó, ở Singapore, khoảng 5% người có trình độ ra đi.

Trong khi lãnh đạo của một số quốc gia ở khu vực lúc bấy giờ có vẻ vui mừng vì cho rằng, hiện tượng chảy máu chất xám thực chất là "chảy máu những rắc rối" thì Lý Quang Diệu ráo riết thực hiện chính sách giữ người tài trong nước và thu hút ngoại lực cho những công việc mà nền kinh tế đang cần.

Ông cho lập 2 ủy ban. Một ủy ban có nhiệm vụ giúp những người có năng lực làm đúng nghề và một ủy ban kết hợp họ lại thành một xã hội. Với những người xuất sắc, ủy ban này cố gắng thu hoạch sớm bằng cách đề nghị việc làm ngay trước khi tốt nghiệp.

Ngoài ra, còn lập 2 cơ quan thu hút nhân tài từ Ấn Độ và các nước trong khu vực. Chính phủ của ông cũng bãi bỏ quy định cấm nữ công dân Singapore đưa chú rể nước ngoài nhập cư để "giữ chân" phụ nữ học vấn cao và thu hút thêm những ông chồng trình độ ít ra là tương đương với họ.

"Nếu không lấp vào chỗ trống bằng những tài năng nước ngoài, chúng tôi không làm cho đất nước vươn lên hàng đầu được", Lý nói.

Tại sao chọn tiếng Anh?

Các trường học ở Singapore đều dùng tiếng Anh là ngôn ngữ bắt buộc. Với Chính phủ Singapore, việc lựa chọn tiếng Anh đóng vai trò như ngôn ngữ làm việc, giúp ngăn chặn nảy sinh sắc tộc, đem lại ưu thế cạnh tranh.

Để "đem lại ưu thế cạnh tranh", Lý Quang Diệu phải kiên trì đeo đuổi chính sách đưa tiếng Anh vào trường học với nhiều sóng gió.

Khi lập chính quyền vào năm 1959, ông và cộng sự đã quyết định dùng tiếng Malaysia làm quốc ngữ. Song, sau đó nhận ra rằng tiếng Anh phải là ngôn ngữ nơi làm việc và ngôn ngữ chung.

"Tuy nhiên, đây là một vấn đề quá nhạy cảm, không thể thay đổi ngay được".

Không muốn khởi chiến về lĩnh vực ngôn ngữ, Chính phủ Singapore bấy giờ đề ra việc học ba thứ tiếng cho trường tiếng Anh. Đổi lại, giới thiệu việc dạy tiếng Anh trong các trường dạy tiếng Hoa, tiếng Malay và tiếng Tamil.

Những năm sau đó, ông phải đương đầu với phản ứng của lực lượng chống đối khi họ đề nghị chính phủ đảm bảo vị thế của tiếng Hoa như một ngôn ngữ chính thức. Đáng kể nhất là kế hoạch đưa tiếng Anh vào làm ngôn ngữ giảng dạy ở ĐH Nantah, ngôi trường do những thương gia người Hoa dựng nên. Sau một thời gian cải tổ, sáp nhập, trường Nathah ngày trước, với chất lượng SV tốt nghiệp thấp, đứng trước nguy cơ tan rã, nay đã trở thành ĐH Công nghệ Nanyang (NTU), một trong những ĐH có tiếng của Singapore.

Ba đứa con của Lý Quang Diệu hoàn toàn học hành ở các trường tiếng Hoa. Phát biểu ở trường ĐH, Lý Quang Diệu khẳng định chưa bao giờ hy sinh nền giáo dục của các con vì mục đích chính trị. Dẫu vậy, về đào tạo ĐH, ông không cho con học trường tiếng Hoa vì "tượng lai phụ thuộc vào việc thông thạo dùng ngôn ngữ của những sách giáo khoa mới nhất, đó là tiếng Anh".

Điều này, Lý Quang Diệu đã gợi ý trong buổi gặp với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết: "ĐH Việt Nam nên có sách giáo khoa tiếng Anh ở các ngành quan trọng như kỹ thuật, công nghệ... bởi nếu chỉ dùng sách Việt Nam thì chắc chắn sẽ tụt hậu. Nếu tất cả sinh viên Việt Nam sau này không thể nghe và nói tiếng Anh trôi chảy, chỉ có thể đọc thôi cũng đã là tụt hậu".

Ở Việt Nam, vai trò quan trọng của tiếng Anh đã đặt ra. Năm 2006, Viện Chiến lược và chương trình giáo dục (Bộ GD-ĐT) khởi thảo đề án "chiến lược dạy ngôn ngữ trong trường phổ thông", trong đó xác định tiếng Anh sẽ là ngôn ngữ chính thức. Tuy nhiên, đề án đang còn bỏ ngỏ vì những tranh cãi căng thẳng về việc có nên "suy tôn" tiếng Anh như vậy hay không.

Khi theo đuổi chính sách "nhiều tiếng nói, một ngôn ngữ" Lý Quang Diệu cũng nhận thấy "nguy cơ giá trị truyền thống đạo đức mất dần đi trong SV qua việc gia tăng tiếp xúc truyền thông phương Tây. Còn những giá trị của một xã hội tiêu thụ Mỹ đang lan khắp đất nước, nhanh hơn các quốc gia trong khu vực do nền giáo dục bằng tiếng Anh".

"Chính sách song ngữ bằng tiếng Anh và tiếng Malay, tiếng Hoa hay tiếng Anh đều là gánh nặng lên vai con cái chúng tôi. Ba ngôn ngữ mẹ đẻ này hoàn toàn không can hệ gì đến tiếng Anh. Song, nếu sử dụng một trong những thứ tiếng trong các ngôn ngữ mẹ đẻ của mình thì chúng tôi không thể kiếm sống được. Nếu chúng tôi chỉ sử dụng mỗi tiếng Anh thì sẽ gặp bất lợi là đánh mất đi đặc tính văn hóa của mình, đó là lòng tự tin về bản thân cũng như miền đất đang sống", Lý Quang Diệu viết trong hồi ký...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Hán Văn – Trần Trọng San

Hán Văn NXB Bắc Đẩu 1973 Tác giả: Trần Trọng San Số trang: 448 Quyển “Hán Văn” này, gồm có 4 phần sau: Phần thứ nhất – Mở đầu Phần thứ hai – Tân quốc văn Phần thứ ba – Trung quốc văn tuyên Phần thứ tư – Trung quốc văn phạm Download Hán Văn (NXB Bắc Đẩu 1973) – Trần Trọng San, 448 Trang.PDF Download Hán Văn (NXB Bắc Đẩu 1973) – Trần Trọng San, 448 Trang.PDF Download Hán Văn (NXB Bắc Đẩu 1973) – Trần Trọng San, 448 Trang.PDF Sưu tầm tài liệu học Hán Văn: Download

Đại số đại cương của Hoàng Xuân Sính

Sách Đại số đại cương dành cho sinh viên ngành Toán. Tác giả: Hoàng Xuân Sính Nhà xuất bản: Giáo dục Năm xuất bản: 2005 Nội dung sách gồm 6 chương: Chương I: Tập hợp và quan hệ Chương II: Nửa nhóm và nhóm Chương III: Vành và trường Chương IV: Vành đa thức Chướng V: Vành chính và vành Ơclit Chương VI: Đa thức trên trường số DOWNLOAD: MediaFire

Lễ ký

Kinh Lễ hay còn gọi là Lễ ký (lai5 gei3) là một quyển trong bộ Ngũ Kinh của Khổng Tử, tương truyền do các môn đệ của Khổng Tử thời Chiến quốc viết, ghi chép các lễ nghi thời trước. Lễ ký cùng với Châu lễ và Nghi lễ được gọi chung là Tam lễ. Khổng Tử hiệu đính lại Kinh Lễ mong dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Không học Kinh Lễ thì không biết đi đứng ở đời" Lễ Ký Kinh Điển Về Việc Lễ – Nhữ Nguyên – NXB Đồng Nai 1996 – 350 trang